VĂN PHÒNG LUẬT SƯ AN PHÁT PHẠM
Một vài tình huống vi phạm quyền khởi kiện
|
1. Quyền khởi kiện vụ án dân sự Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tố tụng dân sự. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật TTDS quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Để bảo đảm mọi tranh chấp đều được giải quyết, quyền lợi của cá nhân, tổ chức được bảo vệ, một số nước trên thế giới đã có quy định Tòa án không được từ chối thụ lý giải quyết vụ việc dân sự. Bộ luật tố tụng dân sự của nước ta có quy định về quyền khởi kiện vụ án (Điều 161), nhưng bên cạnh đó cũng có quy định về việc trả lại đơn khởi kiện trong một số trường hợp (Điều 168), trong đó có dành quyền cho Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của điều luật này. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng quyền khởi kiện vụ án của cá nhân, tổ chức sẽ bị vi phạm khi Tòa án vi phạm pháp luật khi trả lại đơn khởi kiện. Mặc dù luật có quy định về quyền khiếu nại đối với việc trả lại đơn khởi kiện, tuy nhiên, khi mâu thuẫn giữa người khởi kiện và Tòa án lại do chính Tòa án giải quyết sẽ không đảm bảo tính khách quan. Bài viết này đề cập hai tình huống phổ biến mà ở đó quyền khởi kiện vụ án dân sự bị vi phạm. 2. Một vài tình huống vi phạm quyền khởi kiện 2.1. Tòa án không tuân thủ pháp luật khi trả lại đơn khởi kiện Điều 168 BLTTDS quy định một số trường hợp cụ thể Tòa án được trả lại đơn khởi kiện. Ngoài ra, khoản 2 Điều 169 BLTTDS cũng quy định Tòa án được trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Tòa án. Thực trạng Tòa án trả lại Đơn khởi kiện chưa được cấp nào, ngành nào thống kê, tổng kết, rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, qua thực tế hành nghề luật sư chúng tôi nhận thấy rằng, việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án khá tùy tiện, dẫn đến việc vi phạm quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức liên quan. Một lý do khá điển hình của việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện là do khi nộp đơn khởi kiện, người khởi kiện không gửi kèm được các tài liệu, chứng cứ- mà theo quan điểm của Tòa án là- để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Sau khi nhận được đơn khởi kiện, nếu nhận thấy tài liệu, chứng cứ kèm theo chưa “đủ”, Tòa án thường ra văn bản yêu cầu khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện- nhưng thực chất là yêu cầu bổ sung thêm các tài liệu, chứng cứ mà thẩm phán được giao nhiệm vụ thụ lý cho rằng “cần thiết”. Sau đó, nếu người khởi kiện không cung cấp được những tài liệu, chứng cứ đó theo yêu cầu của Tòa án thì Tòa án sẽ căn cứ vào khoản 2 Điều 169 để trả lại đơn khởi kiện. Dễ nhận thấy rằng, Tòa án yêu cầu người khởi kiện bổ sung thêm các tài liệu, chứng cứ nhưng lại ra văn bản yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện là không đúng luật bởi lẽ chỉ trong trường hợp Đơn khởi kiện chưa có đủ các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS- (điều khoản này không đề cập gì đến việc nộp tài liệu, chứng cứ) Tòa án mới được yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Chúng ta điều hiểu rằng, yêu cầu nộp thêm chứng cứ, tài liệu kèm theo Đơn khởi kiện của Tòa án là căn cứ vào quy định tại Điều 165 BLTTDS và hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại phần 5, mục I, Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006. Mặc dù Điều 165 BLTTDS quy định: “người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Tuy nhiên, trong quy định về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện, không có trường hợp nào cho phép Tòa án được trả lại đơn khởi kiện nếu người khởi kiện không thực hiện đúng quy định tại Điều 165 BLTTDS. Xuất phát từ một thực tế là không phải tài liệu, chứng cứ nào người khởi kiện cũng có thể dễ ràng tự mình thu thập được, chưa kể đến việc người bị kiện, những cá nhân, tổ chức liên quan cố tình gây khó khăn, chiếm giữ trái phép các tài liệu, chứng cứ quan trọng của vụ án mà người khởi kiện chỉ trông chờ vào việc Tòa án sẽ giúp mình thu thập được các tài liệu, chứng cứ đó trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, việc Tòa án trả lại Đơn khởi kiện do người khởi kiện không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ như Tòa án yêu cầu là trái pháp luật và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức có liên quan. 2.2 Hướng dẫn nội bộ ngành Tòa án cũng vi phạm quyền khởi kiện Trong phần này chỉ xin đề cập đến Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 9 năm 2011 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, (sau đây gọi tắt là “Công văn 141”). Công văn 141 nêu trên được Tòa án nhân dân tối cao gửi các cấp Tòa án nhân dân trong toàn quốc, trong đó hướng dẫn rằng khi có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản thì Tòa án không thụ lý giải quyết với lý do các giấy tờ này (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; giấy đăng ký xe ô tô) không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của BLDS 2005. Công văn 141 nêu trên còn hướng dẫn các cấp Tòa án khi trả lại đơn khởi kiện phải hướng dẫn cho người khởi kiện “có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm hữu bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó”. Việc Tòa án nhân dân tối cao cho rằng giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của BLDS 2005 là đúng. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tối cao lại tước mất quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này là một sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng bởi một lẽ hết sức đơn giản, đó là, giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, bản thân nó, cũng chính là một vật (có nghĩa là một dạng tài sản), chỉ có điều người ta không, hoặc khó có thể, xác định chính xác giá trị của tài sản đó như là khi xác định giá trị của các “giấy tờ có giá” mà thôi. Chính Tòa án nhân dân tối cao, trong Công văn 141, khi nói về các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, cũng đã sử dụng các thuật ngữ “chủ sở hữu, người chiếm hữu”- là các thuật ngữ gắn liền với khái niệm “tài sản”. Không ai có thể phủ nhận được rằng một tờ giấy trắng là một vật, có nghĩa là một dạng tài sản. Giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trước hết là một tờ giấy nên nó cũng là vật, là tài sản, hơn nữa, nhờ những nội dung in trên giấy đó nên giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản là vật đặc định (Điều 179 BLDS). Do vậy, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ bất hợp pháp phải trả lại các giấy tờ này (Điều 255 BLDS). Theo nội dung được hướng dẫn tại Công văn 141 thì các yêu cầu khởi kiện để đòi lại các giấy tờ khác như: hộ chiếu, giấy chứng minh nhân dân; chứng chỉ, bằng tốt nghiệp; bằng lái xe; thẻ hội viên .. cũng sẽ bị Tòa án từ chối thụ lý, giải quyết chỉ vì các giấy tờ đó “không phải là giấy tờ có giá”. Khi Tòa án nhân dân, cơ quan mà pháp luật quy định là có thẩm quyền giải quyết buộc người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản, trong đó có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó đã chối bỏ nhiệm vụ của mình, không hiểu họ sẽ hướng dẫn cho người khởi kiện phải yêu cầu cơ quan nào, mà theo họ mới là cơ quan chức năng, để giải quyết thay họ (?). Trong khi pháp luật không có quy định giá trị tối thiểu của tài sản tranh chấp là bao nhiêu thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp mới được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, ngành Tòa án từ chối thụ lý, giải quyết yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản nói riêng, các giấy tờ không phải là “giấy tờ có giá” nói chung, là một sự vi phạm nghiêm trọng đối với quyền khởi kiện của cá nhân, tổ chức có liên quan. |